UNCLOS năm 1982 - nền tảng căn bản cho những tiến bộ
Bình luận về cột mốc 40 năm của UNCLOS năm 1982, phần lớn giới chuyên gia trong lĩnh vực luật biển quốc tế trên khắp thế giới cùng khẳng định, UNCLOS năm 1982 có tầm quan trọng, giá trị phổ quát. Đồng thời, UNCLOS năm 1982 cũng được nhấn mạnh là bản Hiến pháp của đại dương. Nhìn lại 40 năm hành trình UNCLOS năm 1982, giới chuyên gia nhìn nhận, thực tế đã nảy sinh nhiều vấn đề mới như: bảo vệ môi trường, bảo vệ đa dạng sinh học biển, biến đổi khí hậu, sự phát triển của khoa học kỹ thuật… Tất cả những vấn đề này đang trở thành thách thức đối với vai trò của UNCLOS năm 1982.
Đảo Đá Tây A, quần đảo Trường Sa, Việt Nam. Ảnh: TTXVN
Dẫu vậy, các thách thức mới này vẫn có thể giải quyết hoàn toàn trong khuôn khổ pháp lý của UNCLOS năm 1982, đây cũng là minh chứng cho tính phổ quát, bao trùm của bản hiến pháp đại dương này. Mặt khác, các phán quyết của cơ quan tài phán cũng góp phần làm sáng tỏ cách giải thích và thực thi luật quốc tế. UNCLOS năm 1982 hiện vẫn được đông đảo cộng đồng quốc tế khẳng định vai trò quan trọng trong luật biển quốc tế. Tòa án luật biển quốc tế (ITLOS) và các cơ chế giải quyết tranh chấp được quy định trong UNCLOS năm 1982 có thể tiếp tục áp dụng UNCLOS năm 1982 để giải thích cho những bước phát triển mới trong vấn đề luật biển chưa được điều chỉnh trong UNCLOS năm 1982.
Giới chuyên gia khẳng định, các cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế được thiết lập theo công ước đã tạo ra những sự bình đẳng, khách quan, giúp các quốc gia lớn và nhỏ trên thế giới giải quyết các bất đồng, tranh chấp bằng biện pháp hòa bình. Kể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, UNCLOS năm 1982 là văn kiện pháp lý quan trọng nhất, chỉ sau Hiến chương Liên hợp quốc. Giới chuyên gia đều tin tưởng mạnh mẽ rằng, UNCLOS năm 1982 vẫn còn đầy đủ giá trị và có thể áp dụng để giải quyết các vấn đề mới nảy sinh trên biển.
Tựu chung trong hàng loạt chương trình thảo luận về luật biển quốc tế được tổ chức trong năm qua, các ý kiến trao đổi đều cùng nhấn mạnh vai trò của luật pháp quốc tế và UNCLOS năm 1982 trong duy trì trật tự pháp lý trên biển. Trong đó, giới chuyên gia dành nhiều sự quan tâm khi đề cập tới những khía cạnh có liên quan trực tiếp đối với khu vực Đông Nam Á, dựa trên UNCLOS năm 1982 để hướng tới các giải pháp giải quyết bất đồng, tăng cường hợp tác và đưa ra các khuyến nghị chính sách thiết thực cho các quốc gia trong khu vực.
Trong vấn đề Biển Đông, giới học giả nhìn nhận ở góc độ tổng thể, Biển Đông đóng vai trò quan trọng trong bảo đảm hòa bình và thịnh vượng toàn cầu. Dù bối cảnh thế giới có nhiều biến đổi bất ngờ trong thời gian qua, song, cục diện Biển Đông đang tạm thời tương đối tĩnh lặng. Trong đó, an ninh khu vực và Biển Đông đang được thể hiện thông qua 2 góc độ, gồm liên quan giữa các nước ven Biển Đông và liên quan đến cạnh tranh giữa các nước lớn. Theo đó, Biển Đông chịu tác động bởi nhiều yếu tố như bối cảnh địa chính trị trên thế giới và khu vực, các toan tính của cường quốc và cạnh tranh giữa các nước lớn.
Dù trong bối cảnh nhiều phức tạp, song, giới chuyên gia khẳng định, Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương nói chung và Biển Đông nói riêng ngày càng trở thành mối quan tâm của nhiều quốc gia và tổ chức thế giới. Điển hình trong các nỗ lực quốc tế có thể kể đến như Anh, Pháp, Ấn Độ… hay các tổ chức như Liên minh châu Âu (EU) đều chủ động đưa ra các chiến lược riêng tại Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và khẳng định cam kết ngày càng tăng cường can dự tại khu vực.
Trong các thông điệp được tuyên bố nhất quán xuyên suốt thời gian qua, EU luôn phản đối các hành động đơn phương bảo vệ trật tự dựa trên luật lệ, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, cam kết giữ an ninh, xây dựng trật tự luật lệ trên biển, trong đó, UNCLOS năm 1982 đặt ra khuôn khổ pháp lý cho tất cả các hoạt động trên biển và đại dương. Đặc biệt, EU luôn khẳng định sự ủng hộ mạnh mẽ đối với vai trò trung tâm của ASEAN, kiến trúc khu vực dựa trên luật lệ, chủ nghĩa đa phương, an ninh thông qua Diễn đàn Khu vực châu Á (ARF), xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) ràng buộc pháp lý và bảo đảm lợi ích của bên thứ ba.
Tiếp nối giá trị, bền vững tương lai
Bình luận về DOC, giới chuyên gia cho rằng, đây là thành tựu quan trọng giữa ASEAN và Trung Quốc. Hành trình xuyên suốt 20 năm qua đã cho thấy rõ nét rằng, các bên có thể hợp tác để tìm kiếm điểm tương đồng vì mục đích chung, dù còn tồn tại khác biệt. Việc đạt được tuyên bố DOC có ý nghĩa khởi đầu cho nỗ lực chung, thúc đẩy hợp tác tại khu vực, là cơ sở cho quá trình tham vấn về COC trong tương lai.
Nhà giàn DK1-21 trên thềm lục địa phía Nam Tổ quốc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Ảnh: TTXVN
Nhìn nhận về tương lai của COC, Đại sứ Phạm Quang Vinh, nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Trưởng quan chức cao cấp (SOM) ASEAN của Việt Nam (2007-2014) cho rằng, COC cần dựa trên luật pháp quốc tế, UNCLOS năm 1982 và nhân lên để trở thành một bộ quy tắc tốt hơn DOC trong bảo vệ an ninh, an toàn, tự do hàng hải, thượng tôn luật pháp quốc tế và UNCLOS năm 1982.
Nói về quá trình đàm phán COC mà các bên đang hướng tới, ông Vinh cho rằng, quá trình thương lượng COC cần phải hướng tới thực chất và hiệu quả nhằm đảm bảo an ninh, an toàn và tự do hàng hải ở Biển Đông và tuân thủ luật pháp quốc tế, bao gồm UNCLOS năm 1982.
Mặt khác, để các bên có thể thương lượng với nhau, cần tạo ra môi trường trên biển thuận lợi. Nếu như tình hình trên biển phức tạp thì khó có được lòng tin trong trao đổi, thương lượng. COC rõ ràng cần phải thúc đẩy nhưng phải lấy nội dung là trọng tâm quan trọng nhất, không nên chỉ “chạy đua” tiến độ với việc đặt ra một thời hạn cụ thể. Chính việc duy trì được đối thoại, hiểu biết, thương lượng đàm phán cũng là quan trọng.
Cũng theo ông Vinh, khi đối thoại với nhau, các bên cùng hướng tới mục tiêu duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực Biển Đông. Các bên cũng cần phải tạo môi trường thúc đẩy tiến trình này diễn ra thuận lợi, trong đó có việc xây dựng lòng tin và ngăn ngừa những rủi ro phức tạp nảy sinh. Kết quả của đàm phán phải bảo đảm được các yêu cầu và nguyên tắc nhất định.
Giới chuyên gia nhìn nhận, vừa qua, các bên đàm phán COC đã đạt được rà soát lần một COC. Đây là một bước tiến lớn trên chặng đường còn dài để có thể đạt được một COC tốt hơn DOC. Những tiến bộ gần đây đang ngày càng tạo ra nhiều triển vọng hơn nữa cho việc đạt được một COC thực chất, hiệu quả và phù hợp với UNCLOS năm 1982.